Với làn da sạm nắng đang miệt mài bên lò rèn, cùng với những tiếng búa đập thình thịch, tiếng quay quạt lửa và cả tiếng cười đùa của những em bé Tà Riềng bao trùm cả không gian một góc rừng. Thấy chúng tôi có vẻ thích thú với nghề rèn, ông Tơngôl Nhứn (75 tuổi) dừng việc rồi trò chuyện. Từ xa xưa, đồng bào Tà Riềng có tập tục canh tác đất để trồng lúa rẫy, lúa nước và nhiều loại cây trồng khác đem lại nguồn thực phẩm dồi phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày, phục vụ trong lễ hội, tết đã hình thành nên nghề rèn. Hằng năm, cứ trước mùa phát rẫy chuẩn bị gieo trồng lúa rẫy, khoảng từ tháng 4 đến tháng 5, đây là thời gian nông nhàn để đàn ông dân tộc Tà Riềng đốt lửa lên rèn. Khi rèn thì quặng và sắt cho vào nung đỏ rực rồi đem nhúng vào nước để nhiệt độ giảm đột ngột làm cho sắt non hơn để dễ đập thành từng dụng cụ. Sau đó, người thợ phải hình dung được dáng rấp của từng công cụ, rồi dùng đột và búa cắt thành hình công cụ cần rèn. Khi cắt xong từng công cụ, người thợ tiếp tục bỏ vào lửa nung, rồi lại đập cho đến khi nào thành sản phẩm.
Thợ rèn Tơngôl Nhứn, với công đoạn chế tác dụng cụ lao động.
Tìm hiểu về nghề rèn chúng tôi được biết, từ nhỏ ông Tơngôl Nhứn đã tiếp xúc với sắt, với cái búa, con dao, cái rựa...Khi 15 tuổi, ông Nhứn đã theo cha vào rừng tìm quặn, củi đốt than để về rèn. Ký ức về làng nghề hàng trăm tuổi của dân tộc Tà Riềng trong ông Nhứn hiển hiện qua từng câu chuyện kể sinh động của cha ông và những lớp người lớn tuổi trong làng. Đến bây giờ, ông Tơngôl Nhứn không còn nhớ nổi mình đã rèn bao nhiêu dụng cụ như: cái cuốc (ma rehs), cái rựa (mưr), rìu (chuông), con dao (para), đến chĩa cá, tôm và nhiều dụng cụ sinh hoạt khác phục vụ bà con trong làng.
Lần đầu tiên ngồi bên cái lò rèn của ông Tơngôl Nhứn, tại thôn Đắc Tà Vâng, xã vùng biên Đắc Tôi, so với lò rèn của các dân tộc khác trên vùng Trường Sơn mà chúng tôi đã gặp, thì lò rèn của ông Nhứn được đắp bằng đất, mặt lò võng xuống để có thể cho than vào. Từ cách nhóm lò, chọn than cho đến cách đặt bếp cũng phải có kỹ thuật. Than để đốt lò là than của một loại gỗ ở trong rừng. Ðặc biệt, không phải than nào cũng dùng để đốt lò, mà ông Nhứn sử dụng loại than được đốt từ cây gỗ dẻ, loại than này cho ngọn lửa có nhiệt độ cao.
Ông Tơngôl Nhứn với công đoạn mài thật kỹ cho đến khi dụng cụ sắc hơn.
Cũng theo ông Nhứn, kỹ thuật rèn của người Tà Riềng không được ghi chép bài bản, mà nhớ trong đầu và chỉ có người đi trước truyền lại cho người đi sau, có một cách tôi thép riêng biệt. Họ lấy vỏ của con cua đá hoặc mai của con rùa bắt ở suối giã nát trộn chung ngâm với nước mưa giành dùng để tôi nhúng sắt mỗi khi chuẩn bị cho ra lò một dụng cụ nào đó. Theo đó, cách làm như vậy chất lượng con dao, đến cái rựa, cái rìu, v.v...sẽ được bóng như vỏ con cua, láng như cái mai của con rùa mà vật dụng còn thêm bền hơn.
Với người thợ rèn như ông Nhứn, khi rèn phải theo một quy trình và cần có hai người, một người rèn và một người quay quạt để than trong lò cháy đều cung cấp nhiệt cho quá trình đốt nóng các dụng cụ. Nghề rèn thủ công của người Tà Riềng, đòi hỏi người thợ phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra những vật dụng riêng với độ sáng, kiểu dáng, rất sắc bén. Từ cái cuốc làm cỏ lúa rẫy, cái rựa, cái rìu đi rừng, đến con dao, v.v... luôn được ông Nhứn sử dụng gốc cây trúc già làm cán. Khi những vật dụng rèn xong, ông Nhứn tiếp tục sử dụng dũa để dũa những đoạn bị mẻ, sứt hoặc chưa đều, rồi tiếp tục lấy đá để mài, mài thật kỹ cho đến khi dụng cụ sắc hơn và bong ra một lớp trắng ở đầu lưỡi thì mới thôi. Và cuối cùng, là công đoạn tra cán, được ông Nhứn sử dụng gốc cây trúc già làm cán. Ấy thế mới biết, nghề rèn truyền thống của dân tộc Tà Riềng cứ cháy mãi trong tim, trở thành động lực và niềm thôi thúc để ông Nhứn giữ lửa làng nghề của tổ tiên người Tà Riềng truyền lại hơn 60 năm qua.
Bà Chơ Rum Ớn (78 tuổi) tâm sự: Không riêng tôi, mà nhiều bà con Tà Riềng trong thôn Đắc Tà Vâng thường xuyên đến nhờ ông Nhứn làm nhiều dụng cụ phục vụ lao động sản xuất từ cái cuốc làm cỏ lúa rẫy, cái rựa, cái rìu đi rừng, đến con dao, v.v... Bởi dụng cụ mà ông Nhứn làm thì phát rẫy rất bén và nhanh, không bị cùn và không mất thời gian mài. Còn hàng mua ở chợ huyện thì mỏng dính, bị mẻ sứt là bỏ, phí lắm.
Mỗi lần lò rèn của ông Tơngôl Nhứn đỏ lửa, trẻ em Tà Riềng trong thôn đến xem học nghề.
Chia tay, ông Nhứn nói thêm: Từ trước đến nay, đồng bào Tà Riềng luôn coi trọng nghề rèn truyền thống. Bởi nó giúp bà con Tà Riềng canh tác đất sản xuất để trồng lúa rẫy, lúa nước và nhiều loại cây trồng khác đem lại nguồn thực phẩm dồi phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày, phục vụ trong lễ hội, tết nhưng lớp trẻ Tà Riềng hiện nay không mấy quan tâm đến nghề rèn, cũng bởi công việc học tập ở trường của các cháu luôn mất nhiều thời gian. Nhưng cũng không ít, mỗi lần lò rèn của ông Tơngôl Nhứn đỏ lửa, trẻ em Tà Riềng trong thôn đến xem học nghề. Dù cuộc sống hôm nay có thay đổi đến mấy, thì tôi luôn giữ nghề truyền thống của dân tộc mình để không hổ thẹn với người xưa.
Đem chuyện ông Tơngôl Nhứn ở thôn Đắc Tà Vâng, đã hơn 60 năm giữ lửa nghề rèn, chúng tôi được anh A Lăng Minh –Phó Chủ tịch UBND xã Đắc Tôi cho biết: Hiện nay, trong xã Đắc Tôi nghề rèn truyền thống của đồng bào Tà Riềng còn lại không nhiều chỉ còn cái lò rèn của ông Tơngôl Nhứn hoạt động thường xuyên. Ông Tơngôl Nhứn, là người có công giữ gìn nghề rèn truyền thống của người Tà Riềng rất được tôn trọng và vinh danh. Những năm qua, xã đã đặt ra việc bảo tồn và gìn giữ nghề rèn truyền thống của người Tà Riềng là một việc làm cần thiết, nhằm giải quyết được nhu cầu về vật dụng và công cụ lao động của nhân dân trong mùa lên nương rẫy, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội mà còn góp phần giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tà Riềng./.
-Bài và ảnh: Sơn Gia Phúc